SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA
Ngũ Hổ Mãnh Tướng
Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt
Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..
Hoa
DANH SACH
DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .
===========================
TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975
2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975
3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975
4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975
5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975
6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con
7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon
8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975
9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975
10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-
khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ
11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975
12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975
13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.830/4/1975
14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản
15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975
16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975
17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975
18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975
19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)
20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975
21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975
22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975
23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon
24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-
khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn
25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975
26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975
27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn
28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ
29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75
30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975
31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75
32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa
33Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975
34
Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,
nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :
35
Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975
36
Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau
37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu
38Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người
tại Vũng Tàu
39
Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.
40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQDTu tu tai nha o Hoc Mon
41Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.
HOA
===========================
TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975
2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975
3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975
4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975
5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975
6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con
7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon
8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975
9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975
10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-
khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ
11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975
12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975
13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.830/4/1975
14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản
15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975
16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975
17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975
18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975
19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)
20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975
21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975
22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975
23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon
24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-
khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn
25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975
26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975
27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn
28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ
29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75
30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975
31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75
32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa
33Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975
34
Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,
nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :
35
Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975
36
Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau
37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu
38Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người
tại Vũng Tàu
39
Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.
40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQDTu tu tai nha o Hoc Mon
41Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.
HOA
30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN
Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn
TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA
LE CHAO CO DAU NAM 2011
THÁNG TƯ ĐEN
Tháng tư đen miền Nam sụp đổ!
Búa liềm nhuộm máu ghê rợn người
Miền Nam tơi tả như xác pháo
Mẹ gìa ngơ ngác nhìn trẻ thơ.
Mẹ khóc than, thương con cháu Việt,
Khóc miền Nam ba mươi năm kiên cường
Chống giặc cọng, luôn giữ gìn xóm làng
Bao thế hệ, hi sinh vì nợ nước !
Ba mươi tháng tư, ngày dài thế kỷ !
Mẹ khóc thương con, mỏi mòn tháng ngày
Miền Nam kinh hoàng lảo đảo cơn say
Sóng đỏ tràn vào cửa nhà trôi hết !
Ba mươi tháng tư, tủi hờn vong quốc !
Hơn ba mươi năm chống lại giặc thù
Miền Nam khắc phục : Dân chủ - Tự do
Miền Bắc cúi đầu nô lệ Nga - Tàu !
Ba mươi tháng tư, tiếng kêu ai oán !
Miền Nam tan biến, trôi cả giang sơn
Bắc Nam một mầu, đen tối thời gian
Cả nước xích hóa treo một màn đỏ !
Ba mươi tháng tư, buông tay chịu trận !
Những đòn ác hiểm trút hết lên đầu
Gông, cùm, kềm kẹp xích cả dân lành
Ngục tù phủ kín rừng sâu nước độc !
Ba mươi tháng tư, triệu ngưởi bỏ chạy !
Người chết ven rừng, núi; kẻ biên cương
trên sông, suối, nào biển cả ao hồ !
Thà chết, không sống chung thiên đường cọng sản !!
Huy Vân
VĂN TẾ CHIẾN SỸ TRẬN VONG
VĂN TẾ CHIẾN SỸ TRẬN VONG
….Hỡi ơi!
Vận nước điêu linh, sông buồn núi thảm,
Cơ trời ảm đạm, đất lạnh người sầu!
Mấy cuộc bể dâu , rầu rầu ly loạn,
Bao lằn tên đạn, lớp lớp xung phong…
Vị quốc thân vong, anh hùng tử sĩ !
Nghìn thu vạn kỷ, Tổ Quốc ghi danh,
Hồn phách hiển linh, về đây chứng giám…
Nhớ những linh xưa…bao mùa ly loạn,
Gối đất nằm sương…Chiến trường u hiểm !
Đánh giặc ngày đêm, giữ gìn non biển,
Giữ gìn từng tấc đất ông cha,
Chính các anh…những người lính Cộng Hòa…
Đem máu đỏ thắm tô cờ Tổ Quốc !
Chính các anh…xuất thân từ những nhà nông, tay cày tay cuốc…
Hoặc thư sinh vừa rời ghế học đường !
Đấng trượng phu… chí tại bốn phương,
Câu hồ thỉ…tung hê cho thỏa !
Rồi một sáng đầu Xuân, hay một chiều cuối Hạ,
Lòng quyết lòng…lo trả nợ nam nhi,
“ Giã nhà mang lấy chiến y,
Súng cầm tay…quyết một đi diệt thù !”
Các chị nữa…thân liễu bồ mảnh dẻ,
Nước lầm than…hồ dễ làm ngơ?
Cùng chung sống dưới màu cờ,
Gái trai đều phải chung lo diệt thù !
Ôi ! Chiến trận, mịt mù lữa khói,
Pháo từng bầy, may rủi đường tơ!
“ Phải đành xác bọc poncho,
Phải đành vùi dưới nấm mồ…rừng sâu?”
Nhớ những linh xưa…nhìn đất não trời sầu
Tháng Tư đó…ôi miền Nam sụp đổ…
Chính các anh…dù trong mạt lộ…
Vẫn bền gan…chiến đấu đến tàn hơi…
Nhớ những linh xưa…hồn dũng tướng sáng ngời…
Nào những: Nguyễn Khoa Nam . Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng,
Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ… thà tự sát để giữ tròn danh tiết…
Và còn nữa …những oan hồn thê thiết,
Chết trong tù cải tạo lắm tang thương !
Hay chết giữa rừng sâu, chết vượt biển tìm đường,
Ôi cái giá tự do…phải trả bằng trăm điều oan nghiệt,
Ôi càng nghĩ…lòng đau thương thống thiết…
Giặc Đỏ chiếm miền Nam, đào xới mả mồ !
Khinh Phật Trời, theo ngụy thuyết Tam Vô,
Trả thù cả với xương người Tử Sĩ !
Dâng Đất Biển Rồng Tiên…cho Tàu Đỏ Bắc Phương !
“Ải Nam Quan ! Ôi Ải Nam Quan !
Bán rồi ! Đứt ruột ! Dân Nam lệ nhòa !”
Đất biển đó, Ông Cha tạo dựng,
Bốn ngàn năm…giữ vững giang sơn !
“ Giờ đây đất biển căm hờn…
vì quân Hồ Cộng, bán hồn Tổ Tiên !”
Hởi Tử Sĩ ! …Hồn linh thiêng có biết ?
Nơi xứ người thê thiết phận tàn binh !
Chúng tôi đây, giờ bóng đã xế mành…
Từng bật khóc nhiều phen…cho cơ đồ bị mất,
Từng bật khóc nhiều phen…nhớ bao người đã khuất…
Mà hồn vật vờ, phách cũng tang thương !
Xin hãy về đây trong màu khói trầm hương…
Kìa…hồn linh hiển…như chập chờn hiển hiện,
Cùng với chúng tôi…Những người lính già tạm cư đời dâu biển,
Rũ chinh y…buồn với cuộc phong ba !
Ta cùng nhau thông cảm lệ nhòa,
Chia xẻ nỗi đắng cay… nhiều tủi nhục !…
Hồn hỡi hồn ơi !…Thôi thì thôi…dòng đời luôn có khúc,
Khi gập ghềnh, khi bình lặng, lúc gian truân,
Miễn kẻ còn đây, với kẻ chết chẳng chia phân….
Cùng hoà nhập theo mối thù vong quốc !
Tin tưởng một ngày mai, xoay chiều thế cuộc,
Chính nghĩa thắng hung tàn…Xin hồn hãy an tâm !…
Rượu thịt nơi đây…tuy cũng nhuốm phong trần,
Vì xứ khác, khác vị mùi của quê ta đó !
Nhưng với tấm lòng thành, người cùng chung đất Tổ,
Tưởng niệm người vị quốc vong thân !
Hãy về đây…theo khói tỏa hương trầm…
Xin thượng hưởng ! Hồn ơi xin thượng hưởng ! !
NHẬT-HỒNG
(Thi sĩ cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân Nguyễn Thanh Vân)
Nguyễn Mạnh Trinh
Ô hô!
Xưa, truyền tụng bài Điếu Cổ Chiến Trường Văn, lời Lý Hoa
đã dãi dầu cùng thiên cổ.
Nay, đọc lại Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc, tiếng Đồ Chiểu còn sang sảng với non sông.
Than ôi
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, trung nghĩa đài lửa thắp nhớ người xưa.
Đất linh thiêng vùi chôn thân xác, đàn trận vong lời vẳng tận thiên thu.
Vận nước đến thời
Anh hùng mạt vận
Hai mươi năm xây đắp quốc gia, ngăn sóng đỏ, cầm gươm giữ nước
Một thế kỷ lầm than dân tộc, xót thế thời, đứng dậy dưới cờ.
Tháng tư đen, bỗng tình cảnh xảy đàn tan nghé
Ất mão buồn, chợt tang thương tan cửa nát nhà
Phe Cộng hung hăng, đằng sau Nga Tàu tận tình chi viện, xe tăng súng lớn thừa thãi ê hề, đạn vung vãi tối trời mù đất
Phía ta thế thủ, mặt trước đồng minh buông tay không giúp, máy bay tàu thủy thiếu thốn xăng dầu, pháo nhỏ giọt làm sao chiến thắng.
Muốn tận tình tranh đấu, mà ai xui bỏ đất bỏ dân.
Thích xông thành đụt pháo, ngỡ mình đang giữ xóm giữ làng.
Cơ đồ mất, tướng quân tử tiết, sáng trưng tinh đẩu, linh hiển thành phúc thần phù hộ non sông
Chính quyền tan, dân chúng khóc than, xâm lược đã bạo tàn bắt người cướp của.
Nhớ linh xưa,
Mắt biếc môi hồng, tuổi trai trẻ dập dồn bao ước vọng
Đôi mươi xanh tóc, vào lửa binh đâu ngại chuyện tương lai
Nhập binh ngũ phận kẻ nam nhi, đời chinh khách dậm ngàn vó ngựa
Khoác nhung bào kiếp sống hào hùng, thân bách chiến xá gì sinh tử
Mùa hè đỏ lửa, ghìm tay súng giữ vững biên cương.
Mậu thân khói tỏa, vững niềm tin yên bình phố thị.
Bảo quốc trấn không, cánh chim trời dọc ngang, đi chẳng về, không trung gửi xác thân.
Đại dương vùng vẫy, kình ngư ngoài biển lớn, bỏ bến bờ, sóng dữ náu hình hài.
Nào nhảy dù, biệt động,.. trăm trận xông pha, chiến tích đã nức danh kim cổ
Nào thiết giáp, pháo binh,.. khí thế đằng đằng, sấm sét dáng lên đầu giặc dữ.
Dù chán ghét chiến chinh, nhưng vẫn phải dấn thân binh lửa.
Mặc tình đời đen bạc, mãi một lòng báo quốc trung trinh.
Trí vốn quen sách vở thư sinh, bỏ trường lớp đi vào chiến trận.
Óc chất chồng lục thao tam lược, có xá gì làn đạn mũi tên.
Ghét giặc bạo tàn, pháo kích dân lành, chẳng xót thương đồng bào ruột thịt.
Chở che bá tánh, chiến địa tung hoành, sức đoạn kình yên hàn xã tắc.
Nào ngờ đâu
Da ngựa bọc thây, chữ quy khứ đã đành về âm cảnh.
Đầu non trăng dãi, câu chiêu hồn đủ sót chốn dương gian.
Bàn cờ thua, ai cứu được giang san.
Gặp vận bĩ, liều thân cùng đất tổ.
Hỡi ơi!
Một trận tan tành,
Trời thủ đô vần vũ áng mây tang.
Muôn dân thương khó,
Đất phương nam ngơ ngác ngọn cờ hàng.
Cuối tháng tư, thế cùng lực tận, tướng trấn ải cam đành tự tận, nêu tiếng thơm để lại ngàn sau.
Đầu tháng năm, hàng ngũ vỡ tan, quân tử thủ liều tấm thân, đời anh kiệt ghi cùng sử sách.
Mặt trận Sài Gòn ngày rã ngũ, cả tiểu đội nắm tay ôm lựu đạn, sống cùng nhau và chết cũng cùng nhau.
Bản doanh Cần Thơ đêm buông súng, khắp quân đoàn lệ khóc thương tư lệnh, sinh vi tướng và tử cũng vi thần.
Bao nhiêu người gục ngã, vạn chiến sĩ vô danh tô máu sắc cờ.
Bấy nhiêu gương nghĩa dũng, muôn anh linh hiến mình vì nước hy sinh.
Thế mà
Đài tưởng niệm chỉ đành trong tâm tưởng, phận kẻ thua đâu có được đền miếu huy hoàng.
Bức tượng Tiếc Thương đem dập vùi hoang phế, khiến nhân tâm đau xót thảm thương.
Nghĩa trang Quân Đội đành rêu loang cỏ áy, xui quốc dân thống hận đoạn trường.
Ở hải ngoại, muôn lòng tưởng niệm, cuối tháng tư thắp nén nhang thơm.
Nơi lưu lạc, vạn lời thương cảm, đầu tháng năm đốt nến nhớ người. Vọng hồn trung liệt
Ly rượu nồng tựa nước mắt muôn thu
Tưởng đấng hùng tài.
Chén nước trong giống suối nguồn son tạc.
Thác chẳng cần đền miếu, sống muôn thuở lừng danh
Sống không kể gian nguy, thác ngàn năm nhang khói.
Ơi hỡi anh hùng chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Về đây chứng giám.
Hồn linh thượng hưởng.
Phú Hận Tháng Tư
Tháng Tư đất nước một màu tang
Từ buổi quê hương bóng giặc tràn
Xã tắc điêu linh đời ngục ải
Sơn hà nghiêng ngả cuộc ly tan
Phần tư thế kỷ thân lưu lạc
Hơn nửa cuộc đời giữa ngổn ngang
Mối hận tháng Tư nung nấu dạ
Phải thanh thỏa hết trước đời tàn
Tháng Tư! Tháng Tư! Tháng đen tử khí
Ất Mão! Ất Mão! Xuân trắng màu tang
Triệu triệu con người vật vả khóc than
Trăm thằng thảo khấu rú cười quái đản
Tiếng AK rờn rợn đưa người vào mê sảng
Bóng mũ cối xanh dờn dẫn nước đến tàn hoang
Đỉnh cao trí tuệ khiến toàn thế giới phải bàng hoàng
Tà thuyết mị dân đẩy cả quê hương vào mê loạn
Hàng triệu người bỏ phiếu bằng đôi chân lổ loang vết đạn
Cả dân tộc kêu gào với tiếng nói uất nghẹn lầm than
Xã tắc tiêu điều
Trăm họ ngổn ngang
Đền miếu tiên tổ hoang phế điêu tàn
Mã mồ tiền nhân xác xơ đổ nát
Từ tháng Tư đen lương dân mịt mờ trong đọa đày tù rạc
Từ Ất Mão xám kẻ sĩ điên loạn giữa lầy lội dối gian
Bắc Nam trầm thống tiếng kêu vang
Trời đất sầu vương lời oán thán
31 năm .....
Tổ quốc hôm nay ngậm ngùi trong nỗi hờn vong bản
Quê hương hiện thời khắc khoải giữa cơn lốc vô nhân
Bởi...
Bè lũ Cộng sản vẫn say men bạo ác, vẫn cai trị dân bằng xiềng xích Mác gian
Nên ..
Đồng bào Việt Nam còn ngập kiếp khổ đau, còn lết lê đời giữa gông cùm quốc nạn
Nguyệt Biều, An Truyền Hịch Quyết Chiến đã hiệu triệu rền vang
An Giang, Châu Đốc Lửa Hy Sinh đang ngời cao tỏa rạng
Tất cả đều quyết tâm diệt phường cẩu tặc
Mọi người đều nhất dạ trừ lũ sói lang
Đấu Tranh Dân Chủ, con đường chân chính của đất nước Nam đang chuyển bước nhân gian
Ngôn Luận Tự Do, tiếng nói bất khuất của nhân dân Việt đã dựng nêu nguyên đán!
Tiếng trống Mê Linh như dập dồn giờ xung trận
Câu gào Sát Thát chừng dục dã phút lên đàng
Sĩ phu Việt Nam đã đứng lên quyết lấy lại giang san
Cháu con Âu Lạc đang chổi dậy để diệt trừ Cộng đảng
Máu dẫu phải chảy thành sông nếu cần cho ngày mai tươi sáng
Xương dầu có cao như núi khi thiết để tổ quốc vinh quang
Chế độ Cộng sản bạo tàn chắc chắn phải bị tiêu tan
Chính thể Cộng Hòa nhân bản đương nhiên trở thành nền tảng
Đồng bào ơi! hãy đoàn kết diệt Cộng dựng lại Cờ Vàng
Huynh đệ ơi! hãy quyết tâm trừ gian trùng tu xã tắc
Tháng Tư! Tháng Tư! Vững tin chờ nhạc tấu khúc khải hoàn!
Non Sông! Non Sông! Yên chí đợi bản trường ca chiến thắng !
Từ Đà Thành
Văn tế tướng sĩ trận vong
Than ôi! Trời Đông Phố vận ra Sóc Cảnh [2], trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay; nước Lô hà chảy xuống Lương giang [3], nghĩ mấy kẻ điêu linh [4] những từ thuở nọ, cho hay sinh là ký mà tử là quy; mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.
Xót thay! Tình dưới viên mao [5], phận trong giới trụ [6]. Ba nghìn họp con em đất Bái [7], cung tên ngang dọc chí nam nhi; hai trăm vây cờ cõi non Kỳ [8], cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ.
Dấn thân cho nước, son sắt một lòng; nối nghĩa cùng thầy, tuyết sơn mấy độ.
Kẻ thời theo cơ đích [9] chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung; kẻ thời đón việt mao [10] trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mật [11], chung nỗi ân ưu; mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh, Thuận [12], đã mấy buổi sơn phong hải lễ [13], trời Cao, Quang [14] soi tỏ tấm kiên trinh, rồi lai từ Đồn Bàn, Nam, Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long [15], biết bao phen vũ pháo vân thê [16], đất Lũng, Thục [17] lăn vào nơi hiểm cố.
Phận truy tùy, ngẫm lại cũng cơ duyên; trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng [18] theo đạn lạc tên bay; kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa [19] mặc bèo trôi sóng vỗ.
Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc [20], mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương [21]; mặt chinh phụ khôn vẽ nét gian nan, lập lòe lửa trời, soi chừng cổ độ [22].
Ôi! Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu [23], nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ [24].
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài; những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu [25] xem nửa phút như không, ơn dầy đội cũng cam trong phế phủ [26].
Phận dù không gác khói đài mây [27]; danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.
Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chả quản ngàn sương đệm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường [28]; tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn Vũ lộ [29].
Vâng thượng đức hồi loan [30] tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫn Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh [31] cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang; mà những người từng thượng trận ngày xưa, dắp tấu công tự ngọ, vị, thân, dậu [32] đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui; dịp trống dồn hoa; chốn tươi chốn ủ. Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không; nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phân thủy có phận chung sao không có [33].
Bản chức nay, vâng việc biên phòng, chạnh lòng niềm viễn thú. Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh; trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió. Bâng khuâng kẻ khuất với người còn; tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó. Nền phủ định [34] tới đây còn xốc nỗi, vu lòng một lễ, chén rượu thoi vàng; chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ, có cảm thông thì tới đó khuyên mời; dù linh thinh hãy nghe lời dặn dỗ.
Buổi chinh chiến hoặc oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho; hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.
Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu [35]; hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ [36].
Cơ huyền diệu [37] hoặc thâm trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân [38]; niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sóng trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ [39].
Nguyễn Văn Thành
….Hỡi ơi!
Vận nước điêu linh, sông buồn núi thảm,
Cơ trời ảm đạm, đất lạnh người sầu!
Mấy cuộc bể dâu , rầu rầu ly loạn,
Bao lằn tên đạn, lớp lớp xung phong…
Vị quốc thân vong, anh hùng tử sĩ !
Nghìn thu vạn kỷ, Tổ Quốc ghi danh,
Hồn phách hiển linh, về đây chứng giám…
Nhớ những linh xưa…bao mùa ly loạn,
Gối đất nằm sương…Chiến trường u hiểm !
Đánh giặc ngày đêm, giữ gìn non biển,
Giữ gìn từng tấc đất ông cha,
Chính các anh…những người lính Cộng Hòa…
Đem máu đỏ thắm tô cờ Tổ Quốc !
Chính các anh…xuất thân từ những nhà nông, tay cày tay cuốc…
Hoặc thư sinh vừa rời ghế học đường !
Đấng trượng phu… chí tại bốn phương,
Câu hồ thỉ…tung hê cho thỏa !
Rồi một sáng đầu Xuân, hay một chiều cuối Hạ,
Lòng quyết lòng…lo trả nợ nam nhi,
“ Giã nhà mang lấy chiến y,
Súng cầm tay…quyết một đi diệt thù !”
Các chị nữa…thân liễu bồ mảnh dẻ,
Nước lầm than…hồ dễ làm ngơ?
Cùng chung sống dưới màu cờ,
Gái trai đều phải chung lo diệt thù !
Ôi ! Chiến trận, mịt mù lữa khói,
Pháo từng bầy, may rủi đường tơ!
“ Phải đành xác bọc poncho,
Phải đành vùi dưới nấm mồ…rừng sâu?”
Nhớ những linh xưa…nhìn đất não trời sầu
Tháng Tư đó…ôi miền Nam sụp đổ…
Chính các anh…dù trong mạt lộ…
Vẫn bền gan…chiến đấu đến tàn hơi…
Nhớ những linh xưa…hồn dũng tướng sáng ngời…
Nào những: Nguyễn Khoa Nam . Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng,
Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ… thà tự sát để giữ tròn danh tiết…
Và còn nữa …những oan hồn thê thiết,
Chết trong tù cải tạo lắm tang thương !
Hay chết giữa rừng sâu, chết vượt biển tìm đường,
Ôi cái giá tự do…phải trả bằng trăm điều oan nghiệt,
Ôi càng nghĩ…lòng đau thương thống thiết…
Giặc Đỏ chiếm miền Nam, đào xới mả mồ !
Khinh Phật Trời, theo ngụy thuyết Tam Vô,
Trả thù cả với xương người Tử Sĩ !
Dâng Đất Biển Rồng Tiên…cho Tàu Đỏ Bắc Phương !
“Ải Nam Quan ! Ôi Ải Nam Quan !
Bán rồi ! Đứt ruột ! Dân Nam lệ nhòa !”
Đất biển đó, Ông Cha tạo dựng,
Bốn ngàn năm…giữ vững giang sơn !
“ Giờ đây đất biển căm hờn…
vì quân Hồ Cộng, bán hồn Tổ Tiên !”
Hởi Tử Sĩ ! …Hồn linh thiêng có biết ?
Nơi xứ người thê thiết phận tàn binh !
Chúng tôi đây, giờ bóng đã xế mành…
Từng bật khóc nhiều phen…cho cơ đồ bị mất,
Từng bật khóc nhiều phen…nhớ bao người đã khuất…
Mà hồn vật vờ, phách cũng tang thương !
Xin hãy về đây trong màu khói trầm hương…
Kìa…hồn linh hiển…như chập chờn hiển hiện,
Cùng với chúng tôi…Những người lính già tạm cư đời dâu biển,
Rũ chinh y…buồn với cuộc phong ba !
Ta cùng nhau thông cảm lệ nhòa,
Chia xẻ nỗi đắng cay… nhiều tủi nhục !…
Hồn hỡi hồn ơi !…Thôi thì thôi…dòng đời luôn có khúc,
Khi gập ghềnh, khi bình lặng, lúc gian truân,
Miễn kẻ còn đây, với kẻ chết chẳng chia phân….
Cùng hoà nhập theo mối thù vong quốc !
Tin tưởng một ngày mai, xoay chiều thế cuộc,
Chính nghĩa thắng hung tàn…Xin hồn hãy an tâm !…
Rượu thịt nơi đây…tuy cũng nhuốm phong trần,
Vì xứ khác, khác vị mùi của quê ta đó !
Nhưng với tấm lòng thành, người cùng chung đất Tổ,
Tưởng niệm người vị quốc vong thân !
Hãy về đây…theo khói tỏa hương trầm…
Xin thượng hưởng ! Hồn ơi xin thượng hưởng ! !
NHẬT-HỒNG
(Thi sĩ cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân Nguyễn Thanh Vân)
Nguyễn Mạnh Trinh
Ô hô!
Xưa, truyền tụng bài Điếu Cổ Chiến Trường Văn, lời Lý Hoa
đã dãi dầu cùng thiên cổ.
Nay, đọc lại Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc, tiếng Đồ Chiểu còn sang sảng với non sông.
Than ôi
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, trung nghĩa đài lửa thắp nhớ người xưa.
Đất linh thiêng vùi chôn thân xác, đàn trận vong lời vẳng tận thiên thu.
Vận nước đến thời
Anh hùng mạt vận
Hai mươi năm xây đắp quốc gia, ngăn sóng đỏ, cầm gươm giữ nước
Một thế kỷ lầm than dân tộc, xót thế thời, đứng dậy dưới cờ.
Tháng tư đen, bỗng tình cảnh xảy đàn tan nghé
Ất mão buồn, chợt tang thương tan cửa nát nhà
Phe Cộng hung hăng, đằng sau Nga Tàu tận tình chi viện, xe tăng súng lớn thừa thãi ê hề, đạn vung vãi tối trời mù đất
Phía ta thế thủ, mặt trước đồng minh buông tay không giúp, máy bay tàu thủy thiếu thốn xăng dầu, pháo nhỏ giọt làm sao chiến thắng.
Muốn tận tình tranh đấu, mà ai xui bỏ đất bỏ dân.
Thích xông thành đụt pháo, ngỡ mình đang giữ xóm giữ làng.
Cơ đồ mất, tướng quân tử tiết, sáng trưng tinh đẩu, linh hiển thành phúc thần phù hộ non sông
Chính quyền tan, dân chúng khóc than, xâm lược đã bạo tàn bắt người cướp của.
Nhớ linh xưa,
Mắt biếc môi hồng, tuổi trai trẻ dập dồn bao ước vọng
Đôi mươi xanh tóc, vào lửa binh đâu ngại chuyện tương lai
Nhập binh ngũ phận kẻ nam nhi, đời chinh khách dậm ngàn vó ngựa
Khoác nhung bào kiếp sống hào hùng, thân bách chiến xá gì sinh tử
Mùa hè đỏ lửa, ghìm tay súng giữ vững biên cương.
Mậu thân khói tỏa, vững niềm tin yên bình phố thị.
Bảo quốc trấn không, cánh chim trời dọc ngang, đi chẳng về, không trung gửi xác thân.
Đại dương vùng vẫy, kình ngư ngoài biển lớn, bỏ bến bờ, sóng dữ náu hình hài.
Nào nhảy dù, biệt động,.. trăm trận xông pha, chiến tích đã nức danh kim cổ
Nào thiết giáp, pháo binh,.. khí thế đằng đằng, sấm sét dáng lên đầu giặc dữ.
Dù chán ghét chiến chinh, nhưng vẫn phải dấn thân binh lửa.
Mặc tình đời đen bạc, mãi một lòng báo quốc trung trinh.
Trí vốn quen sách vở thư sinh, bỏ trường lớp đi vào chiến trận.
Óc chất chồng lục thao tam lược, có xá gì làn đạn mũi tên.
Ghét giặc bạo tàn, pháo kích dân lành, chẳng xót thương đồng bào ruột thịt.
Chở che bá tánh, chiến địa tung hoành, sức đoạn kình yên hàn xã tắc.
Nào ngờ đâu
Da ngựa bọc thây, chữ quy khứ đã đành về âm cảnh.
Đầu non trăng dãi, câu chiêu hồn đủ sót chốn dương gian.
Bàn cờ thua, ai cứu được giang san.
Gặp vận bĩ, liều thân cùng đất tổ.
Hỡi ơi!
Một trận tan tành,
Trời thủ đô vần vũ áng mây tang.
Muôn dân thương khó,
Đất phương nam ngơ ngác ngọn cờ hàng.
Cuối tháng tư, thế cùng lực tận, tướng trấn ải cam đành tự tận, nêu tiếng thơm để lại ngàn sau.
Đầu tháng năm, hàng ngũ vỡ tan, quân tử thủ liều tấm thân, đời anh kiệt ghi cùng sử sách.
Mặt trận Sài Gòn ngày rã ngũ, cả tiểu đội nắm tay ôm lựu đạn, sống cùng nhau và chết cũng cùng nhau.
Bản doanh Cần Thơ đêm buông súng, khắp quân đoàn lệ khóc thương tư lệnh, sinh vi tướng và tử cũng vi thần.
Bao nhiêu người gục ngã, vạn chiến sĩ vô danh tô máu sắc cờ.
Bấy nhiêu gương nghĩa dũng, muôn anh linh hiến mình vì nước hy sinh.
Thế mà
Đài tưởng niệm chỉ đành trong tâm tưởng, phận kẻ thua đâu có được đền miếu huy hoàng.
Bức tượng Tiếc Thương đem dập vùi hoang phế, khiến nhân tâm đau xót thảm thương.
Nghĩa trang Quân Đội đành rêu loang cỏ áy, xui quốc dân thống hận đoạn trường.
Ở hải ngoại, muôn lòng tưởng niệm, cuối tháng tư thắp nén nhang thơm.
Nơi lưu lạc, vạn lời thương cảm, đầu tháng năm đốt nến nhớ người. Vọng hồn trung liệt
Ly rượu nồng tựa nước mắt muôn thu
Tưởng đấng hùng tài.
Chén nước trong giống suối nguồn son tạc.
Thác chẳng cần đền miếu, sống muôn thuở lừng danh
Sống không kể gian nguy, thác ngàn năm nhang khói.
Ơi hỡi anh hùng chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Về đây chứng giám.
Hồn linh thượng hưởng.
Phú Hận Tháng Tư
Tháng Tư đất nước một màu tang
Từ buổi quê hương bóng giặc tràn
Xã tắc điêu linh đời ngục ải
Sơn hà nghiêng ngả cuộc ly tan
Phần tư thế kỷ thân lưu lạc
Hơn nửa cuộc đời giữa ngổn ngang
Mối hận tháng Tư nung nấu dạ
Phải thanh thỏa hết trước đời tàn
Tháng Tư! Tháng Tư! Tháng đen tử khí
Ất Mão! Ất Mão! Xuân trắng màu tang
Triệu triệu con người vật vả khóc than
Trăm thằng thảo khấu rú cười quái đản
Tiếng AK rờn rợn đưa người vào mê sảng
Bóng mũ cối xanh dờn dẫn nước đến tàn hoang
Đỉnh cao trí tuệ khiến toàn thế giới phải bàng hoàng
Tà thuyết mị dân đẩy cả quê hương vào mê loạn
Hàng triệu người bỏ phiếu bằng đôi chân lổ loang vết đạn
Cả dân tộc kêu gào với tiếng nói uất nghẹn lầm than
Xã tắc tiêu điều
Trăm họ ngổn ngang
Đền miếu tiên tổ hoang phế điêu tàn
Mã mồ tiền nhân xác xơ đổ nát
Từ tháng Tư đen lương dân mịt mờ trong đọa đày tù rạc
Từ Ất Mão xám kẻ sĩ điên loạn giữa lầy lội dối gian
Bắc Nam trầm thống tiếng kêu vang
Trời đất sầu vương lời oán thán
31 năm .....
Tổ quốc hôm nay ngậm ngùi trong nỗi hờn vong bản
Quê hương hiện thời khắc khoải giữa cơn lốc vô nhân
Bởi...
Bè lũ Cộng sản vẫn say men bạo ác, vẫn cai trị dân bằng xiềng xích Mác gian
Nên ..
Đồng bào Việt Nam còn ngập kiếp khổ đau, còn lết lê đời giữa gông cùm quốc nạn
Nguyệt Biều, An Truyền Hịch Quyết Chiến đã hiệu triệu rền vang
An Giang, Châu Đốc Lửa Hy Sinh đang ngời cao tỏa rạng
Tất cả đều quyết tâm diệt phường cẩu tặc
Mọi người đều nhất dạ trừ lũ sói lang
Đấu Tranh Dân Chủ, con đường chân chính của đất nước Nam đang chuyển bước nhân gian
Ngôn Luận Tự Do, tiếng nói bất khuất của nhân dân Việt đã dựng nêu nguyên đán!
Tiếng trống Mê Linh như dập dồn giờ xung trận
Câu gào Sát Thát chừng dục dã phút lên đàng
Sĩ phu Việt Nam đã đứng lên quyết lấy lại giang san
Cháu con Âu Lạc đang chổi dậy để diệt trừ Cộng đảng
Máu dẫu phải chảy thành sông nếu cần cho ngày mai tươi sáng
Xương dầu có cao như núi khi thiết để tổ quốc vinh quang
Chế độ Cộng sản bạo tàn chắc chắn phải bị tiêu tan
Chính thể Cộng Hòa nhân bản đương nhiên trở thành nền tảng
Đồng bào ơi! hãy đoàn kết diệt Cộng dựng lại Cờ Vàng
Huynh đệ ơi! hãy quyết tâm trừ gian trùng tu xã tắc
Tháng Tư! Tháng Tư! Vững tin chờ nhạc tấu khúc khải hoàn!
Non Sông! Non Sông! Yên chí đợi bản trường ca chiến thắng !
Từ Đà Thành
Văn tế tướng sĩ trận vong
Than ôi! Trời Đông Phố vận ra Sóc Cảnh [2], trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay; nước Lô hà chảy xuống Lương giang [3], nghĩ mấy kẻ điêu linh [4] những từ thuở nọ, cho hay sinh là ký mà tử là quy; mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.
Xót thay! Tình dưới viên mao [5], phận trong giới trụ [6]. Ba nghìn họp con em đất Bái [7], cung tên ngang dọc chí nam nhi; hai trăm vây cờ cõi non Kỳ [8], cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ.
Dấn thân cho nước, son sắt một lòng; nối nghĩa cùng thầy, tuyết sơn mấy độ.
Kẻ thời theo cơ đích [9] chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung; kẻ thời đón việt mao [10] trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mật [11], chung nỗi ân ưu; mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh, Thuận [12], đã mấy buổi sơn phong hải lễ [13], trời Cao, Quang [14] soi tỏ tấm kiên trinh, rồi lai từ Đồn Bàn, Nam, Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long [15], biết bao phen vũ pháo vân thê [16], đất Lũng, Thục [17] lăn vào nơi hiểm cố.
Phận truy tùy, ngẫm lại cũng cơ duyên; trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng [18] theo đạn lạc tên bay; kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa [19] mặc bèo trôi sóng vỗ.
Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc [20], mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương [21]; mặt chinh phụ khôn vẽ nét gian nan, lập lòe lửa trời, soi chừng cổ độ [22].
Ôi! Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu [23], nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ [24].
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài; những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu [25] xem nửa phút như không, ơn dầy đội cũng cam trong phế phủ [26].
Phận dù không gác khói đài mây [27]; danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.
Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chả quản ngàn sương đệm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường [28]; tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn Vũ lộ [29].
Vâng thượng đức hồi loan [30] tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫn Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh [31] cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang; mà những người từng thượng trận ngày xưa, dắp tấu công tự ngọ, vị, thân, dậu [32] đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui; dịp trống dồn hoa; chốn tươi chốn ủ. Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không; nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phân thủy có phận chung sao không có [33].
Bản chức nay, vâng việc biên phòng, chạnh lòng niềm viễn thú. Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh; trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió. Bâng khuâng kẻ khuất với người còn; tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó. Nền phủ định [34] tới đây còn xốc nỗi, vu lòng một lễ, chén rượu thoi vàng; chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ, có cảm thông thì tới đó khuyên mời; dù linh thinh hãy nghe lời dặn dỗ.
Buổi chinh chiến hoặc oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho; hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.
Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu [35]; hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ [36].
Cơ huyền diệu [37] hoặc thâm trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân [38]; niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sóng trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ [39].
Nguyễn Văn Thành
Followers
Vá Cờ - Nguyễn Ngọc Hạnh
Nữ khoa học gia
Dương Nguyệt Ánh
Nguồn trích dẫn (0)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét